TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG ỦY BAN THẨM PHÁN Quyết định giám đốc thẩm Số: 28/2017/HS-GĐT Ngày 03/7/2017 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ỦY BAN THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
Quách Đức Dũng - Kiểm sát viên cao cấp.
Thư ký ghi biên bản phiên tòa, ông: Nguyễn Vũ Thắng - Thư ký Tòa án.
Ngày 03/7/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã mở phiên tòa giám đốc thẩm, xét xử vụ án hình sự đối với các bị cáo:
- Mai Văn D (tên gọi khác: V), sinh ngày 21/11/1988; trú tại: Tổ dân phố A, thị trấn T, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: buôn bán; con ông Trần Văn L và bà Mai Thị L; có vợ là Phan Thị T (bị cáo cùng vụ án); có 1 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.
- Phan Thị T (tên gọi khác: B), sinh ngày 15/7/1993; trú tại: Tổ dân phố A, thị trấn T, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; trình độ văn hóa: 10/12; nghề nghiệp: buôn bán; con ông Phan X và bà Nguyễn Thị Đ; chồng là Mai Văn D (bị cáo cùng vụ án); có 1 con, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.
NHẬN THẤY:
Khoảng 11 giờ 15 phút cùng ngày, ông L, bà L về đến nhà phát hiện mất tài sản đã trình báo Công an. Trong khi Cơ quan Công an đang điều tra, thì tối ngày 18/12/2015, D và T thú nhận và mang tiền, vàng trả lại cho ông L, bà L. Khi nhận lại tài sản thì bà L đã lấy ra số tiền 10.000.000 đồng cho bà Mai Thị T ở cùng thôn mượn.
Đến ngày 19/12/2015, D và T đầu thú tại cơ quan Công an, đồng thời giao nộp toàn bộ số vàng và số tiền 110.000.000 đồng còn lại.
Tại Bản kết luận giám định số 08/TB-TĐC ngày 08/01/2016, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thuộc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Trị kết luận: 10 chiếc nhẫn tròn trơn kim loại màu vàng khối lượng 5 chỉ, hàm lượng vàng từ 99,60 đến 99,99%; 01 lắc đeo tay màu vàng, khối lượng 5,05 chỉ, hàm lượng vàng 61%; 01 chiếc nhẫn mặt vuông gắn đá màu đỏ, khối lượng 0,6 chỉ, hàm lượng vàng 46,90%; 01 chiếc nhẫn mặt vuông gắn đá màu đỏ, khối lượng 1,35 chỉ, hàm lượng vàng 47,22%; 01 nhẫn dài (gắn đá màu xanh), khối lượng 0,6 chỉ, hàm lượng 49,23%; 01 nhẫn xoài (gắn đá màu tím), khối lượng 0,6 chỉ, hàm lượng 45,19%; 01 nhẫn vuông (gắn 12 viên đá mầu trắng), khối lượng 0,45 chỉ, hàm lượng 47,17%; 01 chiếc nhẫn xoài gắn đá màu trắng, khối lượng 0,6 chỉ, hàm lượng vàng 43,03%; 01 chiếc nhẫn xoàn gắn đá màu trắng, khối lượng 0,7 chỉ, hàm lượng vàng 47,63%; 01 sợi dây chuyền tượng phật đá màu trắng, khối lượng 3,28 chỉ, hàm lượng vàng 52,68%; 01 dây chuyền tượng phật vàng, khối lượng 2,8 chỉ, hàm lượng vàng 61,71%; 01 dây chuyền tượng mèo, khối lượng 2,3 chỉ, hàm lượng vàng 66,12%; 01 dây chuyền xoắn thường, khối lượng 1,6 chỉ, hàm lượng vàng 45,65%; 01 dây chuyền tượng trái tim, khối lượng 1, 5 chỉ, hàm lượng vàng 47,49%; 01 dây chuyền tượng sao biển, khối lượng 0,65 chỉ, hàm lượng vàng 68,50%.
Tại Bản kết luận định giá số 10/KL-HDĐG ngày 15/01/2016, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện P (sau đây gọi tắt là Hội đồng định giá) kết luận: 10 chỉ vàng loại 99,60 đến 99,99% vàng có giá 30.230.000 đồng; 5,05 chỉ vàng , loại 61% vàng có giá 9.070.810 đồng; 0,6 chỉ vàng loại 46,90% vàng có giá
773.470 đồng; 1,35 chỉ vàng loại 47,22% có giá 1.740.286 đồng; 0,6 chỉ vàng loại 49,23% có giá 773.460 đồng; 0,6 chỉ vàng loại 45,19% có giá 773.640 đồng; 0,45 chỉ vàng loại 47,17% có giá 585.095 đồng; 0,6 chỉ vàng loại 43,03% có giá 773.460 đồng; 0,7 chỉ vàng loại 47,63% có giá 902.370 đồng; 3,28 chỉ vàng loại 52,68% có giá 5.029.360 đồng; 2,8 chỉ vàng loại 61,71% có giá 5.029.360 đồng; 2,3 chỉ vàng loại 66,12% có giá 4.131.260 đồng; 1,6 chỉ vàng loại 45,65% có giá
2.062.560 đồng; 1,5 chỉ vàng loại 47,49% có giá 1.933.650 đồng; 0,65 chỉ vàng loại 68,50% có giá 1.167.530 đồng.
Tổng giá trị số vàng trên là 65.833.296 đồng. Tổng cộng, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị là: 192.833.296 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2016/HSST ngày 06/7/2016, Tòa án nhân dân huyện Phú Vang quyết định:
“Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt: Mai Văn D 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 2 Điều 138, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60 Bộ luật hình sự, xử phạt: Phan Thị T 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo”.
Ngày 13/7/2016, Mai Văn D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được nhận lại chiếc xe máy mà bản án sơ thẩm đã tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 104/2016/HSPT ngày 19/9/2016, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định: chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo D; “Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 138; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt: Mai Văn D 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Về xử lý vật chứng: tuyên trả lại xe mô tô, biển kiểm soát 75 H1-246.66 cho chủ sở hữu là ông Trần Văn L và bà Mai Thị L để quản lý sử dụng.”
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 13/2017/KN-HS ngày 05/5/2017, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 104/2016/HSPT ngày 19/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2016/HSST ngày 06/7/2016 của Tòa án nhân dân huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế để điều tra lại.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.
XÉT THẤY:
Tại Điều 13 Nghị định số 26/2005/NĐ ngày 02/3/2005 của Chính phủ về Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quy định căn cứ định giá tài sản:
“Việc định giá tài sản phải dựa trên các căn cứ sau đây:
- Giá phổ biến trên thị trường tại thời điểm và nơi tài sản bị xâm phạm;
- Giá do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định;
- Giá trên tài liệu, hồ sơ kèm theo tài sản cần định giá, nếu có;
- Giá trị thực tế của tài sản cần định giá;
- Các căn cứ khác về giá trị của tài sản cần định giá”.
Ngoài ra, Hội đồng định giá còn lấy đơn giá vàng tại Cổng thông tin vật giá ngày 17/12/2015 để xác định giá cũng là không đúng vì Cổng thông tin vật giá không phải là căn cứ pháp lý để xác định giá vàng, mà phải là văn bản do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành và phụ thuộc thị trường nơi tài sản bị xâm phạm.
Do đó, Kết luận định giá của Hội đồng định giá xác định số vàng mà bị cáo D, T chiếm đoạt có tổng giá trị 65.833.296 đồng là chưa chính xác.
Các cơ quan tiến hành tố tụng huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế căn cứ vào kết luận định giá tài sản không đúng pháp luật nêu trên để truy tố, xét xử đối với Mai Văn D, Phan Thị T là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Ngoài ra, để đủ căn cứ vững chắc kết luận D, T chiếm đoạt tài sản của cha, mẹ (ông L, bà L) có giá trị bao nhiêu, thì cần làm rõ số tiền 127.000.000 đồng mà các bị cáo đã chiếm đoạt thuộc quyền sở hữu của ông L, bà L hay còn thuộc quyền sở hữu của người nào khác.
Vì những sai phạm nêu trên, để xét xử đúng quy định pháp luật, quyết định mức hình phạt đúng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của D và T, thấy cần phải hủy bản án hình sự sơ thẩm và bản án hình sự phúc thẩm để điều tra, truy tố lại.
Căn cứ khoản 3 Điều 285; Điều 287 và Điều 289 Bộ luật tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH:
- Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 104/2016/HSPT ngày 19/9/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2016/HSST ngày 06/7/2016 của Tòa án nhân dân huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế để điều tra lại theo thủ tục chung.
- Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
| TM. ỦY BAN THẨM PHÁN CHÁNH ÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA (Đã ký và đóng dấu) Nguyễn Anh Tiến |