1. Về thông báo mẫu dấu của doanh ngiệp (Điều 43)

Trên cơ sở đa số ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu KHÔNG QUY ĐỊNH THỦ TỤC THÔNG BÁO MẪU DẤU với Cơ quan đăng ký kinh doanh trong dự thảo Luật.

2. Về trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp (Điều 26)

Việc bổ sung quy định về hồ sơ đăng ký doanh nghiệp phải có đầy đủ giấy tờ chứng minh trụ sở doanh nghiệp thuộc sở hữu của doanh nghiệp hoặc có hợp đồng thuê mướn địa điểm làm trụ sở hợp pháp. Đồng thời, bổ sung quy định về trách nhiệm của các ngành chức năng trong việc kiểm chứng thông tin đăng ký doanh nghiệp và chế tài xử lý đối với các đối tượng liên quan khi để xảy ra việc sai phạm như việc kê khai giả... sẽ làm phát sinh thêm thủ tục hành chính, tạo gánh nặng hành chính trong gia nhập thị trường cho đại đa số người thành lập doanh nghiệp. Hơn nữa, nếu yêu cầu doanh nghiệp phải có giấy tờ chứng minh trụ sở chính của doanh nghiệp sẽ đi ngược với xu hướng về cải cách môi trường đầu tư, kinh doanh, thủ tục hành chính và định hướng thay đổi phương thức quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Do đó, việc kiểm soát các hiện tượng nêu trên chỉ có thể được thực hiện một cách có hiệu quả thông qua hậu kiểm.
Về trách nhiệm của các ngành chức năng trong việc kiểm chứng thông tin đăng ký doanh nghiệp và chế tài xử lý đối với các đối tượng liên quan khi để xảy ra việc sai phạm, Điều 216 của dự thảo Luật đã quy định thẩm quyền của Cơ quan đăng ký kinh doanh về quyền kiểm tra nội dung đăng ký kinh doanh, xử lý vi phạm các quy định về đăng ký doanh nghiệp và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

3. Về hộ kinh doanh (Chương VIIa)

Trên cơ sở đa số ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu theo hướng bỏ quy định tại Chương VIIa về hộ kinh doanh; bỏ quy định về chuyển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp (Điều 199a). Đồng thời, để bảo đảm tính liên tục cho đến khi ban hành một luật riêng về hộ kinh doanh, cần thiết giao Chính phủ hướng dẫn đăng ký và hoạt động đối với hộ kinh doanh (khoản 4 Điều 217 quy định về điều khoản thi hành).
Chính thức thông qua Luật Doanh nghiệp sửa đổi - Luật Hà Thành Asia - 19008963
 

4. Về quyền của cổ đông phổ thông (Điều 115)

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ quy định này như dự thảo Luật về tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông phổ thông là 5%.
Có ý kiến đề nghị không nên bỏ quy định về điều kiện thời gian cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu tỷ lệ cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng như quy định của Luật hiện hành để bảo đảm việc thực hiện các quyền của cổ đông không làm ảnh hưởng đến việc điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh bình thường của doanh nghiệp.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin Quốc hội cho giữ quy định bãi bỏ quy định về thời gian sở hữu “ít nhất 06 tháng liên tục” nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các cổ đông như dự thảo Luật.

5. Về chào bán trái phiếu riêng lẻ của công ty không đại chúng (Điều 128)

Dự thảo Luật quy định đối tượng được mua và chuyển nhượng trái phiếu chỉ giới hạn cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Quy định hạn chế này không ảnh hưởng đến quyền của các nhà đầu tư khác không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và lợi ích của doanh nghiệp vì doanh nghiệp hoàn toàn có thể phát hành trái phiếu ra công chúng để huy động vốn từ nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp. Nhà đầu tư chứng khoán không chuyên nghiệp có thể ủy thác đầu tư trái phiếu riêng lẻ thông qua nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
Dự thảo Luật bỏ một số điều kiện về chào bán trái phiếu riêng lẻ như: phương án phát hành trái phiếu được cấp có thẩm quyền phê duyệt và chấp thuận; đáp ứng quy định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài; các đợt phát hành trái phiếu chuyển đổi phải cách nhau ít nhất 06 tháng; thời hạn nắm giữ tối thiểu để được chuyển nhượng. Quy định tại điểm d khoản 3 Điều 128 của dự thảo Luật có dẫn chiếu đến “các điều kiện khác theo quy định của pháp luật có liên quan” được hiểu là đã bao gồm các điều kiện này theo quy định tại Luật Chứng khoán. Căn cứ quy định tại dự thảo Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán, Chính phủ đã và đang dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 163/2018/NĐ-CP, trong đó có quy định cụ thể về điều kiện phát hành trái phiếu doanh nghiệp, để bảo đảm kiểm soát chặt chẽ việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp.

6. Về mối quan hệ giữa Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và các luật có liên quan

Dự thảo Luật chỉ quy định việc chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn đối với cá nhân cho công ty. Đối với tài sản có đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sở hữu đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển nhượng sở hữu tài sản đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty theo quy định của pháp luật (Điều 35). Do đó, khi thực hiện các thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn thì phải tuân thủ quy định bao gồm cả quy định về chuyển quyền sở hữu đối với tài sản có sở hữu chung, như quyền sử dụng đất, tài sản có đăng ký… Vì vậy, nội dung về chuyển quyền sở hữu đối với tài sản chung thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về dân sự và pháp luật khác có liên quan, không thuộc phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật.

7. Về quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp (Điều 17)

Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp thu, bổ sung đối tượng: "Tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự" tại điểm g khoản 2 Điều 17 để phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015 (Điều 33 và Điều 80).
 
Ngoài những nội dung nêu trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra, Cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tiếp thu, chỉnh lý về kỹ thuật văn bản; trình Quốc hội xem xét, quyết định./.


Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ:
CÔNG TY  LUẬT HÀ THÀNH ASIA – Hotline miễn phí1900 8963
Website:  http://luatsuhathanh.com
                http://Congtyluathathanhasia.com
Email :     luathathanhasia@gmail.com
Facebook : https://www.facebook.com/luatsuhathanh
Địa chỉ: Số 5, ngõ 104A, đường Thụy Phương, P. Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
 
Trân trọng!