BỘ CÔNG AN
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 05/VBHN-BCA

Hà Nội, ngày 29 tháng 10 năm 2013

 

NGHỊ ĐỊNH
QUY ĐỊNH VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG
Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng có hiệu lực kể từ ngày 12 tháng 12 năm 2003, được sửa đổi, bổ sung bởi:

1. Nghị định số 66/2009/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2003 của Chính phủ quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2009.

2. Nghị định số 118/2010/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2010 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về việc áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2011.

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 7 năm 2002;

Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an[1],

NGHỊ ĐỊNH:

Chương I

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1. Phạm vi điều chỉnh

Nghị định này quy định về đối tượng, nguyên tắc, thủ tục đưa vào trường giáo dưỡng, thành lập, tổ chức trường giáo dưỡng, chế độ quản lý người được đưa vào trường giáo dưỡng và những quy định khác có liên quan đến việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng trên cơ sở các quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.

Điều 2. Đưa vào trường giáo dưỡng[2]

1. Đưa vào trường giáo dưỡng là biện pháp xử lý hành chính do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) quyết định đối với người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại khoản 2 Điều này để học văn hóa, giáo dục hướng nghiệp, học nghề, lao động, cai nghiện ma túy, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của trường.

Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là từ sáu tháng đến hai năm.

2. Đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bao gồm:

a) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Bộ luật Hình sự;

b) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng quy định tại Bộ luật Hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định;

c) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi nhiều lần thực hiện hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, gây rối trật tự công cộng mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định;

d) Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi nghiện ma túy thuộc loại côn đồ hung hãn, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng; càn quấy, gây gổ đánh nhau; sử dụng vũ lực hành hung người khác hoặc chống người thi hành công vụ; tổ chức đua xe trái phép từ hai lần trở lên trong mười hai tháng;

đ) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đang chấp hành quyết định tại cơ sở chữa bệnh, trong giai đoạn cắt cơn, phục hồi mà có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, sử dụng vũ lực chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự tại cơ sở chữa bệnh từ hai lần trở lên trong mười hai tháng.

Căn cứ pháp lý để xác định độ tuổi là Giấy khai sinh. Nếu không có Giấy khai sinh thì phải căn cứ vào Chứng minh nhân dân; sổ hộ khẩu hoặc sổ hộ tịch. Trong trường hợp không có các giấy tờ nêu trên, thì căn cứ vào lời khai và tài liệu có giá trị khác để xác định độ tuổi. Độ tuổi nêu tại các điểm a, b, c, d, đ khoản 2 Điều này là độ tuổi khi đối tượng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Nếu vào thời điểm ký quyết định đưa vào trường giáo dưỡng mà người đó đã đủ 18 tuổi trở lên thì không áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng mà xem xét, lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục nếu thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp này.

3. Trường hợp người chưa thành niên thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật vừa thuộc đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng, vừa thuộc đối tượng đưa vào cơ sở chữa bệnh thì cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh. Cơ quan đã thụ lý hồ sơ có trách nhiệm chuyển toàn bộ hồ sơ về người đó cho Hội đồng tư vấn về việc đưa vào cơ sở chữa bệnh để tiến hành các thủ tục tiếp theo theo quy định của pháp luật.

4. Không áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người nước ngoài.

Điều 3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng[3]

1. Mọi hành vi vi phạm được quy định tại khoản 2 Điều 2 của Nghị định này đều phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng quy định của Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.

2. Người chưa thành niên chỉ bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng nếu thực hiện một trong các hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại các điểm a, b, c, d, đ khoản 2 Điều 2 của Nghị định này.

3. Việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng phải bảo đảm đúng người, đúng thủ tục, thẩm quyền quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 7 năm 2002 (được sửa đổi, bổ sung năm 2008) và các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh nêu trên.

4. Khi quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng phải căn cứ vào các quy định của pháp luật, tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân của người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hành chính để quyết định cho phù hợp.

5. Nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.

Điều 4. Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng[4]

Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được quy định như sau:

1. Một năm kể từ khi thực hiện hành vi vi phạm quy định tại điểm a khoản 2 Điều 2 của Nghị định này.

2. Sáu tháng kể từ khi thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các điểm b, d, đ hoặc kể từ khi thực hiện lần cuối một trong những hành vi vi phạm quy định tại điểm c khoản 2 Điều 2 của Nghị định này.

3. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người có hành vi vi phạm cố tình trốn tránh việc truy cứu trách nhiệm hành chính, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.

Điều 5. Thành lập và quản lý trường giáo dưỡng[5]

1. Bộ Công an quyết định việc thành lập các trường giáo dưỡng theo khu vực; sáp nhập hoặc giải thể các trường giáo dưỡng. Trong trường hợp địa phương có nhu cầu thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) phải xây dựng đề án cụ thể và đề nghị Bộ Công an thành lập trường giáo dưỡng tại địa phương mình.

Trường giáo dưỡng được quy hoạch, thiết kế, xây dựng theo quy định thống nhất của Bộ Công an, bảo đảm phù hợp với đặc điểm yêu cầu của công tác quản lý, giáo dục, học tập, cai nghiện ma túy, chữa bệnh, dạy nghề, thể dục, thể thao, vui chơi giải trí cho học sinh và bảo đảm các tiêu chuẩn về phòng cháy, chữa cháy, vệ sinh môi trường.

2. Bộ Công an thống nhất quản lý các trường giáo dưỡng trong phạm vi cả nước; phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế và các cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc tổ chức giáo dục, dạy nghề, cai nghiện ma túy, phòng bệnh, chữa bệnh và khám sức khỏe định kỳ cho học sinh trường giáo dưỡng phù hợp với lứa tuổi từ đủ 12 tuổi đến dưới 15 tuổi và từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi.

Điều 6. Nhiệm vụ của trường giáo dưỡng[6]

1. Trường giáo dưỡng là nơi chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại khoản 2 Điều 2 của Nghị định này.

2. Trường giáo dưỡng có nhiệm vụ tiếp nhận người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và quản lý, giáo dục đạo đức, pháp luật, hướng nghiệp, tổ chức cai nghiện ma túy, tuyên truyền, chăm sóc, tư vấn, điều trị cho học sinh bị nghiễm HIV/AIDS, chữa bệnh, dạy văn hóa, dạy nghề, tổ chức lao động, sinh hoạt phù hợp với lứa tuổi của họ nhằm giúp đỡ họ sửa chữa những vi phạm của mình, học tập, rèn luyện tiến bộ, phát triển lành mạnh về thể chất, tinh thần, trí tuệ để trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội.

3. Tổ chức và hoạt động của trường giáo dưỡng phải tuân theo các quy định của Nghị định này và các quy định của pháp luật khác có liên quan.

Điều 7. Trách nhiệm của người được đưa vào trường giáo dưỡng[7]

Người được đưa vào trường giáo dưỡng phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước, nội quy của trường giáo dưỡng, chịu sự quản lý, giáo dục của trường giáo dưỡng, phải cai nghiện ma túy (đối với người nghiện ma túy), học tập, rèn luyện, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, hướng dẫn của cán bộ, giáo viên trường giáo dưỡng.

Điều 8. Kinh phí bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng[8]

1. Kinh phí bảo đảm cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, phương tiện, tổ chức hoạt động của trường giáo dưỡng; kinh phí lập hồ sơ, quản lý đối tượng trong thời gian lập hồ sơ, tổ chức đưa người vào trường giáo dưỡng; truy tìm đối tượng bỏ trốn; tổ chức cai nghiện ma túy; điều trị cho học sinh bị nhiễm HIV/AIDS; kinh phí bảo đảm ăn, mặc, ở, học tập, học nghề, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao, phòng bệnh, khám, chữa bệnh của học sinh; kinh phí tổ chức đưa học sinh dưới 16 tuổi, học sinh bị ốm khi chấp hành xong quyết định ra trường về địa phương không có thân nhân đến đón do ngân sách trung ương bảo đảm và từ nguồn hỗ trợ của địa phương, các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước; từ kết quả lao động của trường giáo dưỡng. Phần ngân sách trung ương bảo đảm cho việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng được bố trí vào dự toán ngân sách hàng năm của Bộ Công an.

2. Trường giáo dưỡng được trực tiếp nhận sự giúp đỡ về vật chất của Ủy ban nhân dân địa phương; các cơ quan nhà nước; các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước để sử dụng vào việc dạy văn hóa, hướng nghiệp, dạy nghề, mua sắm trang thiết bị, phương tiện, đồ dùng phục vụ học tập, sinh hoạt, khám, chữa bệnh và tổ chức cai nghiện ma túy cho người đang chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng.

Chương II

THỦ TỤC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƯA VÀO TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG

Điều 9. Lập hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng[9]

1. Đối với người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật được quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 2 của Nghị định này cần đưa vào trường giáo dưỡng thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) nơi người đó cư trú lập hồ sơ gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng gồm có:

a) Bản tóm tắt lý lịch;

b) Biên bản, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó;

c) Kết quả xét nghiệm chất ma túy (đối với người nghiện ma túy);

d) Bản trích lục tiền án, tiền sự (nếu có);

đ) Văn bản về các biện pháp giáo dục đã áp dụng;

e) Nhận xét của cơ quan Công an, ý kiến của nhà trường nơi người chưa thành niên học tập, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Ban Lao động - Thương binh và Xã hội ở cấp xã, cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó;

g) Báo cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.

2. Đối với người chưa thành niên không có nơi cư trú nhất định thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó có hành vi vi phạm pháp luật lập biên bản, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Trong trường hợp đối tượng do cơ quan Công an cấp tỉnh, cấp huyện trực tiếp phát hiện, điều tra, thụ lý trong các vụ vi phạm pháp luật, nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người vi phạm chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự mà thuộc đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng thì cơ quan Công an đang thụ lý phải xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xét duyệt đưa vào trường giáo dưỡng.

Đối với những đối tượng cần đưa vào trường giáo dưỡng thuộc các trường hợp nêu tại khoản 2 Điều này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an cùng cấp tổ chức quản lý chặt chẽ các đối tượng này trong thời gian lập hồ sơ đưa họ vào trường giáo dưỡng. Trường hợp đối tượng không có nơi cư trú nhất định có dấu hiệu bỏ trốn, gây khó khăn cho việc lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng thì Trưởng Công an cấp huyện ra quyết định quản lý họ tại Công an cấp huyện trong thời hạn không quá 15 ngày để lập hồ sơ đưa vào trường giáo dưỡng. Thời gian quản lý đối tượng để lập hồ sơ tại cơ quan Công an cấp huyện được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng.

Chế độ ăn, ở của người có quyết định quản lý tại Công an cấp huyện được hưởng như chế độ ăn, ở của học sinh trong trường giáo dưỡng.

Cơ quan Công an cấp huyện phải bố trí nơi dành riêng cho việc quản lý người đã có quyết định nêu trên trong thời gian họ bị quản lý tại Công an cấp huyện.

Bộ Công an hướng dẫn cụ thể việc quản lý đối tượng và việc lập hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng trong trường hợp nêu trên.

Hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng thuộc các trường hợp nêu tại khoản 2 Điều này gồm có:

a) Bản tóm tắt lý lịch;

b) Biên bản, tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó;

c) Kết quả xét nghiệm chất ma túy (đối với người nghiện ma túy);

d) Bản trích lục tiền án, tiền sự (nếu có);

đ) Văn bản về biện pháp giáo dục đã áp dụng (nếu có);

e) Báo cáo của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.

3. Cơ quan Công an có trách nhiệm giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp trong việc thu thập tài liệu và lập hồ sơ đề nghị đưa người vào trường giáo dưỡng.

4. Trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh, trong giai đoạn cắt cơn, phục hồi mà có hành vi trộm cắp vặt, lừa đảo nhỏ, đánh bạc nhỏ, sử dụng vũ lực chống người thi hành công vụ, gây rối trật tự tại cơ sở chữa bệnh từ hai lần trở lên trong mười hai tháng, thì Giám đốc cơ sở chữa bệnh có trách nhiệm lập hồ sơ trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh để xem xét, quyết định việc áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng theo thủ tục chung quy định tại khoản 5 Điều 9 và các Điều 10, 13, 14 Nghị định này.

Hồ sơ trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thuộc trường hợp nêu tại khoản 4 Điều này, gồm có:

a) Toàn bộ hồ sơ khi đưa vào cơ sở chữa bệnh;

b) Tài liệu về các vi phạm pháp luật của người đó trong thời gian chấp hành quyết định tại cơ sở chữa bệnh (các tài liệu, chứng cứ có liên quan đến hành vi vi phạm của đối tượng, biên bản về hành vi vi phạm trong giai đoạn cắt cơn, phục hồi);

c) Văn bản về các biện pháp giáo dục đã áp dụng (nếu có);

d) Giấy khám sức khỏe của người đó;

đ) Báo cáo của cơ sở chữa bệnh đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng;

e) Các tài liệu khác liên quan đến việc đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người đó (nếu có).

Trong thời gian xét duyệt hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đối tượng vẫn phải chấp hành quyết định tại cơ sở chữa bệnh.

5. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hoặc biên bản quy định tại các khoản 1, 2 và khoản 4 Điều này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện giao cho Trưởng Công an cùng cấp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan Công an cấp huyện có trách nhiệm thẩm tra, thu thập tài liệu, hoàn chỉnh hồ sơ và gửi hồ sơ đến các thành viên Hội đồng tư vấn. Hồ sơ cũng được gửi cho thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện.

Điều 10. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào trường giáo dưỡng[10]

1. Hội đồng tư vấn về việc đưa vào trường giáo dưỡng do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thành lập để giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xét duyệt hồ sơ đưa đối tượng vào trường giáo dưỡng. Hội đồng tư vấn gồm Trưởng Công an, Trưởng phòng Tư pháp, Trưởng phòng Lao động - Thương binh và Xã hội cấp huyện; Trưởng Công an là thường trực Hội đồng tư vấn. Thành viên của Hội đồng tư vấn làm việc theo chế độ kiêm nhiệm. Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm cấp kinh phí cho Hội đồng tư vấn hoạt động.

2. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ, Hội đồng tư vấn có trách nhiệm xem xét hồ sơ và tổ chức cuộc họp để xét duyệt hồ sơ.

3. Thường trực Hội đồng tư vấn có trách nhiệm chuẩn bị tài liệu, tổ chức và chủ trì các cuộc họp của Hội đồng tư vấn. Hội đồng tư vấn làm việc theo chế độ tập thể, họp, xét duyệt và biểu quyết từng đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng. Căn cứ vào các ý kiến và số phiếu biểu quyết của các thành viên trong cuộc họp Hội đồng tư vấn, thường trực Hội đồng tư vấn kết luận theo đa số phiếu về từng đối tượng. Cuộc họp của Hội đồng tư vấn phải được ghi biên bản. Các ý kiến khác nhau phải được ghi vào biên bản cuộc họp gửi kèm theo báo cáo do thường trực Hội đồng tư vấn trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định.

4. Đại diện thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện được mời tham dự phiên họp của Hội đồng tư vấn. Ý kiến phát biểu của đại diện thường trực Hội đồng nhân dân cấp huyện được ghi vào biên bản cuộc họp nêu tại khoản 3 Điều này, báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.

Điều 11.Chuyển hồ sơ của đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự

1. Khi xem xét hồ sơ của đối tượng để quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, nếu xét thấy các hành vi vi phạm của người đó có dấu hiệu tội phạm, thì người có thẩm quyền phải chuyển ngay hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.

Trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án vì hành vi vi phạm của người đó chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, thì người có thẩm quyền đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án phải chuyển quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án kèm theo hồ sơ của đối tượng đó cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện để xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.

2. Đối với trường hợp đã ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, nếu sau đó phát hiện hành vi vi phạm của người bị áp dụng biện pháp này có dấu hiệu tội phạm mà chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thì giải quyết như sau:

a) Trường hợp chưa chấp hành quyết định thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện huỷ quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày huỷ quyết định phải chuyển hồ sơ của đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.

Nếu sau đó, hành vi này của đối tượng có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án hoặc được Toà án tuyên không phạm tội, thì cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải chuyển lại hồ sơ cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện để xem xét, ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng đối với người đó.

b) Trường hợp người đó đang chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng thì theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với người đó, đồng thời chuyển hồ sơ và đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.

Nếu sau đó, đối tượng bị Toà án xử phạt tù thì thời hạn chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được tính vào thời hạn chấp hành hình phạt tù. Hai ngày chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng được tính bằng một ngày chấp hành hình phạt tù. Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải ra quyết định hủy quyết định tạm đình chỉ áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng do mình ban hành và thông báo cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định đưa họ vào trường giáo dưỡng biết để huỷ quyết định đó.

Trường hợp hành vi này có quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án hoặc được Toà án tuyên không phạm tội, thì cơ quan tiến hành tố tụng hình sự phải đưa đối tượng trở lại trường giáo dưỡng để họ tiếp tục chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng. Khi tiếp nhận đối tượng trở lại trường giáo dưỡng thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng ra quyết định huỷ quyết định tạm đình chỉ áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng mà mình đã ban hành đối với đối tượng đó.

Điều 12.Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội được thực hiện trước hoặc trong thời gian chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.

Trong trường hợp phát hiện người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng đã thực hiện hành vi phạm tội trước hoặc trong thời gian chấp hành quyết định thì giải quyết như sau:

Trường hợp chưa chấp hành quyết định, thì theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng đối với đối tượng và trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết định tạm đình chỉ, phải chuyển hồ sơ của đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền.

Trường hợp đối tượng đang chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng, thì theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự có thẩm quyền, Hiệu trưởng trường giáo dưỡng ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết định đối với người đó, đồng thời chuyển hồ sơ và đối tượng cho cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và thông báo cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định đưa họ vào trường giáo dưỡng biết.

Nếu sau đó, đối tượng bị Toà án xử phạt tù thì được miễn chấp hành phần thời gian còn lại trong quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.

Nếu hình phạt được áp dụng không phải là hình phạt tù thì người đó có thể phải tiếp tục chấp hành quyết định đưa trường giáo dưỡng.

Điều 13. Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng[11]

1. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo của Hội đồng tư vấn, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định việc đưa vào trường giáo dưỡng.

Đối với trường hợp người đang chấp hành quyết định tại cơ sở chữa bệnh, trước khi ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 2 Nghị định này, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ra quyết định đình chỉ việc chấp hành quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người đó.

2. Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và phải được gửi ngay cho người bị đưa vào trường giáo dưỡng, cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó, cơ quan Công an cấp huyện, Hội đồng nhân dân cấp huyện và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú, cơ sở chữa bệnh đối với trường hợp đối tượng bị đưa vào trường giáo dưỡng là người đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh.

Điều 14. Nội dung quyết định đưa vào trường giáo dưỡng

Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định; họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người được đưa vào trường giáo dưỡng; hành vi vi phạm pháp luật của người đó và điều, khoản của văn bản pháp luật được áp dụng; thời hạn phải chấp hành quyết định; nơi chấp hành quyết định theo hướng dẫn của Bộ Công an; quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định đưa vào trường giáo dưỡng theo quy định của pháp luật; trách nhiệm của cơ quan Công an cấp huyện phải tổ chức thi hành quyết định và trách nhiệm của người được đưa vào trường giáo dưỡng phải chấp hành quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện.

Điều 15. Thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng[12]

1. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày ra quyết định, cơ quan Công an cấp huyện có trách nhiệm phối hợp với gia đình hoặc người giám hộ đưa người phải chấp hành quyết định vào trường giáo dưỡng.

2. Khi nhận được quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã nơi đối tượng cư trú có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an cùng cấp có kế hoạch quản lý, giám sát người được đưa vào trường giáo dưỡng, đồng thời phối hợp với cơ quan Công an cấp huyện trong việc tổ chức thi hành quyết định.

Trường hợp cần phải có thời gian để tiến hành các thủ tục cần thiết trước khi đưa người có quyết định vào trường giáo dưỡng và tổ chức đưa họ đến trường giáo dưỡng thì Trưởng Công an cấp huyện ra quyết định quản lý họ tại cơ quan Công an cấp huyện trong thời hạn không quá mười ngày. Thời gian quản lý họ tại cơ quan Công an cấp huyện được tính vào thời hạn chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng.

Chế độ ăn, ở của người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trong thời gian bị quản lý tại Công an cấp huyện được hưởng như chế độ ăn, ở của học sinh trong trường giáo dưỡng.

Cơ quan Công an cấp huyện phải bố trí nơi dành riêng cho việc quản lý người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trong thời gian họ bị quản lý tại Công an cấp huyện.

3. Đối với trường hợp người đang chấp hành quyết định tại cơ sở chữa bệnh có quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện đưa vào trường giáo dưỡng, cơ quan Công an cấp huyện nơi xét duyệt hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng có trách nhiệm chuyển người đó từ cơ sở chữa bệnh đến trường giáo dưỡng.

4. Thời hạn chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng được tính từ ngày người phải chấp hành quyết định được đưa đi trường giáo dưỡng.

Điều 16. Cưỡng chế thi hành quyết định

Người phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, nếu không tự giác chấp hành quyết định hoặc chống đối thì cơ quan Công an cấp huyện áp dụng những biện pháp ngăn chặn và cưỡng chế cần thiết theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc người đó phải chấp hành. Trường hợp hành vi chống đối có dấu hiệu của tội phạm thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chống người thi hành công vụ theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Điều 17. Thời hiệu thi hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng

Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng hết thời hiệu thi hành sau một năm, kể từ ngày ra quyết định. Trong trường hợp người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng cố tình trốn tránh việc thi hành, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu nói trên được tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.

Điều 18. Hồ sơ, thủ tục kèm theo khi đưa người đã có quyết định vào trường giáo dưỡng[13]

1. Khi đưa người vào trường giáo dưỡng phải có hồ sơ kèm theo. Hồ sơ gồm có:

a) Quyết định đưa vào trường giáo dưỡng;

b) Bản tóm tắt lý lịch và hành vi vi phạm pháp luật của người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng;

c) Danh bản của người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng;

d) Bản sao các quyết định giáo dục đã áp dụng (nếu có);

đ) Các quyết định quản lý tại Công an cấp huyện (nếu có);

e) Những tài liệu khác liên quan đến nhân thân của người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng (nếu có).

2. Khi giao, nhận người có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng phải lập biên bản giao nhận. Trường giáo dưỡng phải đối chiếu, kiểm tra người được giao nhận với hồ sơ và lập biên bản giao nhận ghi rõ những tài liệu có trong hồ sơ, tình trạng sức khỏe hiện tại của người được giao nhận; tư trang, đồ dùng cá nhân mang theo và những vấn đề khác có liên quan đến việc giao nhận đối tượng.

3. Người đang chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng tại trường giáo dưỡng được gọi là học sinh.

Điều 19. Truy tìm người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng trong trường hợp bỏ trốn[14]

1. Trong trường hợp người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng bỏ trốn trước khi được đưa vào trường giáo dưỡng, thì Trưởng Công an cấp huyện nơi người đó cư trú ra quyết định truy tìm đối tượng. Đối với người không có nơi cư trú nhất định thì Trưởng Công an cấp huyện nơi lập hồ sơ ra quyết định truy tìm.

2. Trong trường hợp người đang chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng bỏ trốn thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng ra quyết định truy tìm đối tượng. Thời gian trốn khỏi trường giáo dưỡng không được tính vào thời gian thi hành quyết định.

3. Cơ quan Công an cấp huyện hoặc trường giáo dưỡng đã ra quyết định truy tìm có trách nhiệm tổ chức truy tìm, bắt giữ đối tượng bỏ trốn. Khi bắt giữ mà đối tượng có hành vi chống đối thì được áp dụng những biện pháp cưỡng chế cần thiết theo quy định của pháp luật và hướng dẫn của Bộ Công an để buộc đối tượng phải chấp hành.

4. Ủy ban nhân dân và cơ quan Công an các cấp có trách nhiệm phối hợp, giúp các cơ quan nêu tại khoản 3 Điều này trong việc truy tìm, bắt giữ đối tượng bỏ trốn.

Khi phát hiện đối tượng có quyết định truy tìm, mọi người có trách nhiệm báo ngay cho cơ quan Công an, Ủy ban nhân dân nơi gần nhất hoặc bắt và dẫn giải ngay đối tượng đến các cơ quan nêu trên.

5. Khi bắt được đối tượng bỏ trốn hoặc nhận bàn giao đối tượng, cơ quan Công an phải lập biên bản, lấy lời khai của người đó, đồng thời thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy tìm biết để đến nhận đối tượng. Trường hợp cần thiết thì người có thẩm quyền tạm giữ người theo thủ tục hành chính quy định tại Điều 45 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ra quyết định tạm giữ hành chính và đưa họ về nơi tạm giữ hành chính của cơ quan Công an. Nghiêm cấm việc tạm giữ đối tượng trong các phòng tạm giữ, tạm giam hình sự hoặc những nơi không bảo đảm vệ sinh, an toàn cho người bị tạm giữ.

Khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy tìm phải cử người đến ngay nơi đang tạm giữ đối tượng để nhận và đưa họ vào trường giáo dưỡng. Việc giao nhận đối tượng phải lập biên bản theo đúng quy định của pháp luật.

6. Đối với người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, nhưng chưa chấp hành mà bỏ trốn, nếu khi bắt lại mà người đó đã đủ 18 tuổi trở lên thì Trưởng Công an cấp huyện nơi đã lập hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp hủy quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục theo đúng trình tự, thủ tục đưa vào cơ sở giáo dục. Trưởng Công an cấp huyện có trách nhiệm tổ chức quản lý chặt chẽ đối tượng tại Công an cấp huyện trong thời gian lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục.

Đối với học sinh đang chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng mà bỏ trốn, nếu khi bắt lại mà người đó đã đủ 18 tuổi trở lên thì Trưởng Công an cấp huyện nơi đã lập hồ sơ đề nghị đưa vào trường giáo dưỡng phối hợp với Hiệu trưởng trường giáo dưỡng nơi học sinh bỏ trốn đề nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp hủy quyết định đưa vào trường giáo dưỡng và lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục theo đúng trình tự, thủ tục đưa vào cơ sở giáo dục. Trưởng Công an cấp huyện có trách nhiệm quản lý chặt chẽ đối tượng tại Công an cấp huyện trong thời gian lập hồ sơ đề nghị đưa vào cơ sở giáo dục. Cơ quan Công an cấp tỉnh có trách nhiệm đưa người đã có quyết định vào cơ sở giáo dục.

Điều 20. Hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng

1. Người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, nhưng chưa được đưa đi trường giáo dưỡng được hoãn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:

a) Đang ốm nặng có chứng nhận của bệnh viện hoặc trung tâm y tế từ cấp huyện trở lên;

Người đang ốm nặng là người đang ở trong tình trạng bị bệnh nặng đến mức không còn khả năng lao động, học tập và sinh hoạt bình thường hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng và theo chỉ định của y sĩ hoặc bác sĩ phải điều trị trong một thời gian nhất định mới có thể bình phục trở lại.

b) Gia đình đang có khó khăn đặc biệt có đơn đề nghị, được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.

Gia đình đang có khó khăn đặc biệt là các trường hợp gia đình người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng bị thiên tai; hoả hoạn lớn; có thân nhân bị ốm nặng hoặc mắc bệnh hiểm nghèo mà ngoài người đó ra không còn ai khác để lao động duy trì cuộc sống gia đình; khắc phục hậu quả thiên tai; hoả hoạn hoặc chăm sóc người bệnh.

Khi điều kiện hoãn chấp hành quyết định không còn thì quyết định được tiếp tục thi hành; nếu trong thời gian được hoãn, người đó có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công, thì có thể được miễn chấp hành quyết định.

2. Người đã có quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, nhưng chưa được đưa đi trường giáo dưỡng được miễn chấp hành quyết định trong các trường hợp sau đây:

a) Đang mắc bệnh hiểm nghèo có chứng nhận của bệnh viện hoặc trung tâm y tế từ cấp huyện trở lên;

Người đang mắc bệnh hiểm nghèo là người đang bị mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như ung thư, bại liệt, xơ gan cổ chướng, phong hủi, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế coi là bệnh hiểm nghèo.

b) Đang có thai có chứng nhận của bệnh viện hoặc trung tâm y tế từ cấp huyện trở lên hoặc phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi có đơn đề nghị miễn chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, trong đơn có xác nhận của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.

Đối với trường hợp phụ nữ đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi không có nơi cư trú nhất định, có đơn đề nghị miễn chấp hành gửi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, nhưng không có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện cử cơ quan công an xác minh, xem xét từng trường hợp cụ thể.

3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện xem xét, quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành trên cơ sở đơn đề nghị của người phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng. Trong trường hợp cần thiết thuộc một trong những điều kiện được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này xét thấy cần phải được xác minh, làm rõ, thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giao cho Trưởng Công an cùng cấp thẩm tra trước khi quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được đơn đề nghị hoãn hoặc miễn của người phải chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phải quyết định việc hoãn hoặc miễn chấp hành quyết định.

Quyết định hoãn hoặc miễn chấp hành phải được gửi cho người được hoãn hoặc miễn, cơ quan Công an cấp huyện, Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi lập hồ sơ đưa đối tượng vào trường giáo dưỡng.

Chương III

TỔ CHỨC, QUẢN LÝ TRƯỜNG GIÁO DƯỠNG

Điều 21. Tổ chức, bộ máy trường giáo dưỡng[15]

1. Tổ chức, bộ máy trường giáo dưỡng gồm có Hiệu trưởng, các Phó hiệu trưởng, Trưởng phân hiệu, Phó trưởng phân hiệu, Đội trưởng, Đội phó các Đội chuyên môn, nghiệp vụ; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật; sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ vũ trang bảo vệ và công nhân viên.

2. Bộ trưởng Bộ Công an quy định việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, Trưởng phân hiệu, Phó trưởng phân hiệu, Đội trưởng, Đội phó; tổ chức, bộ máy và biên chế của trường giáo dưỡng.

3.[16] Quy mô mỗi trường giáo dưỡng được quản lý từ 500 đến 1500 học sinh. Căn cứ vào tình hình và điều kiện cụ thể, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định quy mô của từng trường và địa điểm xây dựng trường giáo dưỡng. Trường giáo dưỡng có trên 1000 học sinh có thể thành lập các phân hiệu theo quy định của Bộ Công an.

Nếu số học sinh vượt quá quy mô của trường hoặc vì lý do chính đáng, cần thiết khác mà phải điều chuyển học sinh từ trường giáo dưỡng này sang trường giáo dưỡng khác thì Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp ra quyết định điều chuyển theo quy định của Bộ Công an. Quyết định điều chuyển phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, Ủy ban nhân dân cấp xã