Câu hỏi:

Vào khoảng đầu năm 2013, tôi là Hoàng Văn H (trú tại xã N, huyện T4, tỉnh Quảng Bình có gặp chị M và được M hứa hẹn xin cho con trai tôi là Hoàng Văn N1 (Sinh năm 1993, đang làm giúp việc tại nhà M) vào bộ đội Hải quân (sĩ quan chuyên nghiệp)với chi phí là 220.000.000 đồng. Mặc dù M không có chức năng tuyển dụng nhưng vì tin những lời M hứa và đảm bảo sẽ xin được việc nên ngày 18/02/2014, tôi đến Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện T4 chuyển tiền cho M số tiền là 120.000.000 đồng. Tháng 02/2014, con trai tôi đi nghĩa vụ quân sự đóng quân Vùng 3 Hải quân, Lữ đoàn 161 tại Đà Nẵng. Tin tưởng M có thể xin được cho con tôi trở thành sĩ quan chuyên nghiệp, tôi tiếp tục đưa cho M 100.000.000 đồng (không viết giấy nhận tiền). Tuy nhiên, sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, đến tháng 01/2016, con tôi nhận được quyết định xuất ngũ nên tôi đòi lại tiền nhưng M không trả.
Ngoài ra, tôi còn biết M đã nhận tiền của chị Nguyễn Thị Thanh H2 và anh Nguyễn Thanh T2 với nội dung sự việc như sau:

  • Khoảng tháng 6/2015, thông qua giới thiệu của anh Lê Đăng Q, chị Nguyễn Thị Thanh H2 (trú tại tổ 6, phường A, quận T6, thành phố Đà Nẵng) đến gặp chị M để liên hệ xin việc cho con trai là Nguyễn Tấn H1. M hứa hẹn xin cho H1 vào làm việc tại Sở Tài chính TP Đà Nẵng với chi phí 180.000.000 đồng. Chị H2 tin tưởng đưa cho M 160.000.000 đồng vào các ngày 12/6/2015 (30.000.000 đồng) và 13/7/2015 (130.000.000 đồng). M viết giấy nhận và hẹn tháng 7/2015 có quyết định đi làm. Sau khi nhận tiền M đã không lo việc cho mẹ con chị H2 và đã tiêu hết vào việc cá nhân, chị H2 có đòi nhưng cho đến nay M vẫn chưa trả.

  • Tháng 8/2015, anh Nguyễn Thanh T2 (thường trú tại thành phố Đà Nẵng) liên hệ với M để xin việc cho vợ là Phan Thị D1. M có hứa hẹn cho chị D1 đi dạy tại một trường THCS tại thành phố Đà Nẵng với chi phí là 160.000.000 đồng. Tin lời M, ngày 26/8/2015 anh T2 đưa số tiền trên cho M, và có viết giấy biên nhận, hứa trong vòng 3 tháng sẽ có quyết định và chị D1 sẽ được đi làm. Tuy nhiên, cho tới nay M vẫn không thể xin được việc cho chị D1, anh T2 đã nhiều lần đòi nhưng M vẫn không trả.

Tôi muốn hỏi Luật sư, với những sự việc như trên thì chúng tôi có thể kiện M tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không?

 

Trả lời:

Cảm ơn bạn đã gửi thư yêu cầu tư vấn cho công ty chúng tôi, dựa trên các tình tiết bạn cung cấp và căn cứ vào quy định của pháp luật hiện hành, chúng tôi đưa ra lời tư vấn đối với thắc mắc của bạn như sau:

  • Thứ nhất, về chủ thể,

Vì bạn không cung cấp rõ thông tin nên chúng tôi tạm thời cho rằng chị M đã trên 18 tuổi, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

  • Thứ hai, về khách thể

Hành vi của M đã xâm phạm tới quan hệ về tài sản, do M đã nhận tiền và không chịu trả sau khi không thực hiện công việc như đã thống nhất

  • Thứ ba, về mặt khách quan

Chị M đã đưa ra nhiều thông tin gian dối khiến những người có nguyện vọng người thân có việc làm như bạn tin là thật nên đã giao tiền cho M. Đồng thời, sau khi nhận số tiền trên M không làm việc như đã hứa mà chiếm đoạt toàn bộ số tiền này để sử dụng vào mục đích cá nhân của mình.
Theo thông tin bạn cung cấp thì hiện tại, tổng số tiền mà chị M đã nhận của mọi người là 540.000.000 đồng.

  • Thứ tư, về mặt chủ quan,

Nhận thấy, mặc dù không có chức năng tuyển dụng người vào các cơ quan nhà nước hay lực lượng vũ trang nhưng chị M đã cố tình đưa ra thông tin gian dối là có khả năng xin việc vào các cơ quan này nhằm yêu cầu các “bị hại” đưa tiền làm chi phí “chạy xin việc” rồi chiếm đoạt để sử dụng cá nhân.
Do đó, với hành vi và hậu quả nêu trên, có đủ căn cứ để cho rằng chị M phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại  Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Ngoài ra, tổng số tiền chị M đã chiếm đoạt lên tới 540.000.000 đồng. Do đó, M có khả năng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điểm a Khoản 4 Điều 174 BLHS với tình tiết “chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên”. Theo đó, khung hình phạt mà chị M có thể phải chịu là bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Vì vậy, nếu cơ quan điều tra mà chưa biết đến sự việc trên thì bạn cần làm đơn tố cáo hoặc trình báo trực tiếp cho cơ quan điều tra (cơ quan công an hoặc Viện kiểm sát) để họ có thể khởi tố vụ án hình sự.
Trân trọng!


====================
Mọi chi tiết xin vui lòng liên hệ:
CÔNG TY  LUẬT HÀ THÀNH ASIA – Hotline miễn phí1900 8963
Website:  http://luatsuhathanh.com
                http://Congtyluathathanhasia.com
Email :     luathathanhasia@gmail.com
Facebook : https://www.facebook.com/luatsuhathanh
Địa chỉ: Số 5, ngõ 104A, đường Thụy Phương, P. Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội.
 
Trân trọng!